Tin Mừng theo thánh Luca có khoảng 40 dụ ngôn, trong số này có 15 dụ ngôn thuộc nguồn riêng của Luca. Dụ ngôn mà ta đang tìm hiểu là một trong số 15 dụ ngôn đó. Xét về mặt văn chương, nó giống với các dụ ngôn “Người Samari tốt lành”, “Ông nhà giầu và Ladarô” (Lc 16,19-31), “Người phú hộ dại dột” (Lc 12,16-21). Các dụ ngôn trên đây đều nhằm đưa ra những thí dụ cụ thể về thái độ nên theo hay nên tránh. Chúng ta cùng nhau nhìn ngắm cử chỉ và lắng nghe lời cầu nguyện của người Pharisêu và của người thu thuế. Đây là hai mẫu người tương phản nhau vào thời Đức Giêsu. Pharisêu -còn gọi là Biệt phái- là những người rất được dân chúng kính trọng vì đời sống đạo đức của họ. Họ chuyên cần suy niệm Kinh Thánh và tuân giữ tỉ mỉ mọi khoản luật. Ngược lại, hạng người thu thuế thường bị mọi người coi khinh, vì họ phục vụ cho đế quốc Rôma và vì những gian lận có thể có của họ khi hành nghề.
Có lẽ người Pharisêu và người thu thuế đã lên đền thờ cầu nguyện vào buổi sáng hay buổi chiều. Cùng với các tín hữu khác, họ đến tham dự nghi thức tha tội được cử hành mỗi ngày hai lần trong đền thờ. Người Pharisêu đứng riêng một mình mà cầu nguyện. Ông không muốn đứng gần những người dân thường, sợ mắc phải nhơ uế của họ. Người thu thuế thì đứng đằng xa, xa người Pharisêu và xa cả đám đông. Anh thấy mình bất xứng và tội lỗi. Anh chẳng dám ngước mắt lên trời, như những người Do Thái khác khi cầu nguyện. Thậm chí anh còn làm một cử chỉ khác thường mà người đàn ông vùng Trung Đông hầu như chẳng bao giờ làm, đó là đấm ngực. Đấm ngực là một cử chỉ của riêng phụ nữ (x.Lc 23,48).
Chúng ta hãy nghe lời cầu nguyện của hai người trên đây; qua lời cầu nguyện của họ, ta thấy được phần nào nội tâm của từng người.
Lời nguyện của người Pharisêu trước hết là một lời tạ ơn, tiếp theo đó là danh sách những thói hư tật xấu mà ông không hề phạm, cuối cùng là những việc đạo đức ông quen làm. Đây là một lời cầu nguyện hết sức thành thật; người Pharisêu chỉ muốn nói lên những điều ông đã sống. Chẳng những ông đã làm các việc đạo đức do luật buộc, như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ Xá Tội, nộtp một phần mười lợi tức cho đền thờ, mà ông còn tự nguyện làm những việc đó ở mức độ cao hơn, như ăn chay một tuần hai lần, nộp cho đền thờ một phần mười tiền mua sắm mọi vật mình sử dụng. Đây là một lời cầu nguyện mà nhiều người Do Thái thời ấy mơ ước. Chúng ta không thấy ông xin gì cho bản thân, nhưng chỉ là lời “tạ ơn”. Điều đáng tiếc là lời nguyện của ông đầy nét tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân: “vì con không như bao người khác”, “con không như tên thu thuế kia”. Chính vì thế chúng ta có thể nghi ngờ về tâm tình “tạ ơn” của người Pharisêu này. Tạ ơn thực sự bao giờ cũng gắn liền với khiêm tốn thẳm sâu.
Người thu thuế đến đền thờ để thú tội. Anh ý thức mình là một tội nhân, ngang hàng với người làm điếm (x.Mt 21,31-32). Có lẽ anh đã nghe thấy lời cầu nguyện của người Pharisêu (“hay như là tên thu thuế kia”), nên anh thấy khỏi cần cáo tội mình. Anh chỉ còn đặt mình trước Thiên Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hoà với anh em, nhưng anh chỉ dám đứng xa vì thấy mình hoàn toàn bất xứng.
Thái độ nội tâm
Người Do Thái thường đứng khi cầu nguyện, nhưng thế đứng của người Pharisêu không phải là thế đứng bình thường. Đó là thế đứng vững chãi của một người “tự hào, cho mình là công chính và khinh miệt người khác” (c.9). Người Pharisêu ra gặp Thiên Chúa và ông cảm thấy mình có thế giá hơn nhiều người khác. Ông đã sống một đời sống đạo đức, nhiệm nhặt. Ông ra gặp Chúa với một kho những công trạng to lớn của riêng ông, nhưng than ôi, cái kho đó lớn quá đến độ nó ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa mà chỉ còn thấy chính mình. Có nhiều chữ tôi trong lời cầu nguyện của ông. Tôi thế này, tôi thế nọ, tôi không như người này, không như người khác… Rốt cuộc, ông Pharisêu lại là người quay vào mình, ông ngắm nghía vẻ đẹp của ông trước Thiên Chúa. Ông khép lại trên chính mình, dù chúng ta tưởng ông đã mở ra khi nói: “Lạy Thiên Chúa, con tạ ơn Ngài.” Tạ ơn thực sự là nhìn nhận mọi sự mình làm được đều do ơn Chúa ban. Tạ ơn là quay về với Thiên Chúa, nhìn nhận Ngài là Nguồn mạch, là Trung tâm, là Sức sống của cả đời mình, của những việc tốt mình làm được. Ông Pharisêu đã không tạ ơn thực tâm, vì ông quay vào mình, coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt đẹp ông đã làm. Như thế Thiên Chúa là một người thừa, hay cùng lắm chỉ là một người mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời vì ông đã có công. Người Pharisêu không xin Thiên Chúa điều gì, bởi vì ông thấy mình không thiếu gì cả. Thiên Chúa chẳng thể cho ông điều gì, vì ông đã đầy ắp. Vì tự mãn, nên ông mất đi một khả năng quan trọng, đó là mở ra để đón nhận Thiên Chúa vào đời mình.
Nếu người Pharisêu là một ông nhà giàu, chẳng có gì phải xin Thiên Chúa, thì ngược lại, anh thu thuế, tuy là người có lắm tiền nhiều của, nhưng thật ra anh là người nghèo trước mặt Thiên Chúa. Anh chẳng có công trạng gì để cậy dựa. Anh ý thức về sự nhơ nhớp của mình và thấy gần như không thể làm lại cuộc đời. Nếu hoán cải, anh phải bỏ nghề, và nhất là phải bồi thường toàn bộ những gì anh đã thu quá mức, cộng thêm một phần năm số tiền trên. Tình cảnh của anh thật là tuyệt vọng. Anh chỉ còn biết cậy dựa vào lòng thương xót Chúa.
Như thế, thật là oái oăm, chính sự đạo đức của người Pharisêu đã trở nên một chướng ngại khiến ông ta không gặp được Thiên Chúa, không lãnh nhận được ơn của Ngài. Còn sự tội lỗi của người thu thuế lại đưa anh đến chỗ mở lòng ra để đón nhận Thiên Chúa, Đấng yêu thương tha thứ.
Kết luận của Đức Giêsu
Đức Giêsu long trọng tuyên bố: “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không.” Như thế những ai tự cho mình là công chính (c.9) thì không được Thiên Chúa nhìn nhận, còn kẻ tội lỗi biết cậy trông, lại được Thiên Chúa làm cho nên công chính. Chúng ta không thể tự tạo cho mình sự công chính thánh thiện nhờ làm những việc lành phúc đức. Trở nên công chính là một ơn Chúa ban cách nhưng không, nhờ lòng tin và lòng mến của ta đối với Đức Giêsu Kitô.
Chắc chắn chúng ta phải làm nhiều việc lành, nhưng đừng tưởng mình có thể mua được Nước Trời bằng những công nghiệp của mình. Chúng ta được cứu độ nhờ công nghiệp của Đức Kitô. Dù sống đạo đức hay trót mang thân phận tội lỗi, chúng ta phải tránh thái độ khép kín trước Thiên Chúa và tha nhân. Đừng vì mình đạo đức mà khép kín trong tự mãn, cũng đừng vì mình tội lỗi mà khép kín trong tuyệt vọng. Ơn Chúa chỉ đến với người biết mở ra để đón nhận.
Chúng ta khao khát nên thánh, nên trọn lành. Người Pharisêu nhấn mạnh đen chuyện “tôi làm”. Nhưng nên thánh không phải là chuyện “tôi làm”, mà là chuyện “để Thiên Chúa tự do làm nơi tôi”. Sau khi được thiên thần truyền tin, Đức Maria đã nói: “Xin hãy xảy ra cho tôi như lời thiên thần truyền”, nghĩa là xin Thiên Chúa hãy làm nơi tôi điều Ngài muốn. Đó là tiếng xin vâng của Mẹ.
Sự lớn lên của đời sống thiêng liêng nằm ở chỗ chúng ta trở nên nhỏ lại, nhường bước, để cho Chúa xâm chiếm và chi phối trọn vẹn đời ta. Càng lớn lên trong Chúa, chúng ta càng cảm thấy một cách mạnh mẽ rằng mình cần đến Thiên Chúa ngày một hơn.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Người Pharisêu vừa cầu nguyện, vừa so sánh mình với người khác. Bạn thấy mình có nét gì giống với ông ta không (tự hào, tự mãn, khép kín…)?
2. Chúng ta dễ phê phán và kết án người khác dựa trên cái nhìn hời hợt bên ngoài. Có khi nào bạn đã vấp phải sai lầm khi vội vã xét đoán người khác không?
Lm Augustine S.J